Kéo dài từ năm 1954 đến 1986 ở miền Bắc Việt Nam, nhưng dư âm của thời “bao cấp” vẫn còn kéo dài đến những năm đầu thập niên 1990.
Những hình ảnh về một
giai đoạn mà đời sống sinh hoạt, kinh tế, xã hội diễn ra đã cách đây
vài chục năm. Lúc đó, hàng hóa được nhà nước phân phối theo chế độ tem
phiếu, chưa được mua bán tự do trên thị trường, người dân chưa được phép
vận chuyển hàng từ địa phương này sang địa phương khác.
Xếp hàng gửi xe trước khi vào mua hàng.
|
Cảnh mua bán tại một quầy hàng mậu dịch Nhà nước.
|
Các mậu dịch viên chuẩn bị hàng hóa, giá cả trước khi phục vụ người dân.
|
Mua đồ gia dụng.
|
Quầy bán vải
|
Mua đồ gia dụng.
|
Đài phát thanh là một thứ hàng xa xỉ ngày đó.
|
Tiền mặt hạn chế sử dụng ở thời kỳ này, thay vào đó là hình thức tem phiếu.
|
Phiếu mua thịt
|
Phiếu mua vải. Mức mua giới hạn nhiều nhất là 1 mét, và tối thiểu là 10 cm.
|
Tem
lương thực có thể đổi lấy các loại lương thực như: gạo, sắn, ngô,
khoai tây, hạt lúa mỳ... với trọng lượng tương đương ghi trên tem.
|
Có thể mua các phụ tùng xe đạp bằng tấm phiếu này.
|
Tem lương thực trị giá mua cho 25 gram lương thực.
|
Phiếu mua xăng mô tô, xe máy. Phiếu này được mua theo mệnh giá lít ghi trên phiếu.
|
Phiếu
mua chất đốt và tem đường. Với phiếu mua chất đốt thì có thể sử dụng
để mua: dầu hỏa, củi, than... Mỗi lần sử dụng, mậu dịch viên sẽ cắt bỏ
một ô trên tờ phiếu tương ứng với số lượng mua.
|
Sổ
mua lương thực hay còn gọi là sổ gạo, thời kỳ này viên chức Nhà nước
chỉ được mua 13,5kg/1 tháng. Thuật ngữ ‘buồn như mất sổ gạo’ xuất hiện
từ đây: Mất sổ gạo còn quan trọng hơn cả việc mất tiền vì có tiền cũng
không mua được gạo, dù là gạo đỏ, đầy thóc và sạn!
|
Quy định của Nhà nước trong việc dùng tem phiếu.
|
Một bài báo về chỉ dẫn mua hàng tết bằng tem phiếu.
|