Trang

Thứ Ba, 3 tháng 7, 2012

Hải quân Việt Nam: Từ 'Hạm đội muỗi' đến lực lượng đáng gờm

Chiến hạm HQ-012 Lý Thái Tổ huấn luyện trên biển
Sự phát triển sức mạnh hải quân của Việt Nam đã trở thành yếu tố quan trọng trong “ván cờ lớn” của ba gã khổng lồ Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ. Dưới đây là sự nhìn nhận của chuyên gia Nga xung quanh vấn đề này.
 
Đông Nam Á là một trong những khu vực phát triển năng động nhất trong những năm gần đây. Có thể tự tin nói đến sự xuất hiện một trung tâm địa-chính trị mới của thế giới. Điều đó được quy định bởi sự tập trung tại khu vực này các tuyến giao thương hàng hải chủ chốt, các nguồn tài nguyên, dân số 600 triệu người và tiềm năng xung đột cao.

Tiềm năng xung đột được quy định một mặt bởi sự hiện diện của một số lượng đáng kể các mối đe dọa phi nhà nước (khủng bố quốc tế, cướp biển, buôn bán ma túy) và nội bộ quốc gia (bất ổn chính trị, các xung đột sắc tộc, tôn giáo chưa được giải quyết), mặt khác bởi sự đối kháng giữa các quốc gia, kể cả giữa một số quốc gia trong khu vực, lẫn các cường quốc ngoài khu vực.

Yếu tố chủ chốt của nền chính trị khu vực ở Đông Nam Á là sự gia tăng mạnh vai trò của đại dương thế giới. Eo biển Malacca và Biển Đông ở mức độ đáng kể bảo đảm cho sự tăng trưởng kinh tế trong khu vực, nhưng chúng cũng tạo ra phần lớn các nguy cơ đối với an ninh quốc gia và quốc tế. Chính các tuyến đường biển quy định vai trò lớn mà các cường quốc ngoài khu vực là Ấn Độ, Nhật Bản và Mỹ đang có ở đây. Không có gì ngạc nhiên khi các quốc gia trong khu vực đều “đã quay ra hướng biển” và dành sự chú ý ngày càng lớn cho chính sách biển.

Một trong các quốc gia then chốt ở khu vực lấy chính sách biển làm chỗ dựa là Việt Nam. Để phát triển kinh tế và bảo đảm an ninh quốc gia của một nước 90 triệu dân, việc phát triển tiềm năng biển nói chung và hải quân nói riêng sẽ là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất trong tương lai gần. Hơn nữa, sự phát triển sức mạnh hải quân của Việt Nam đã trở thành yếu tố quan trọng trong “ván cờ lớn” của ba gã khổng lồ Trung Quốc, Ấn Độ và Mỹ.
Hai tàu chiến uy lực nhất của Hải quân Việt Nam hiện nay
HQ-011 Đinh Tiên Hoàng và HQ-012 Lý Thái Tổ huấn luyện trên biển

Chính sách biển
 
Về truyền thống, Việt Nam xưa nay vốn dĩ vẫn là quốc gia hải quân yếu và sự yếu kém này đã không chỉ một lần ảnh hưởng tai hại đối với an ninh quốc gia của Việt Nam. Thời chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, ưu thế trên biển hiển nhiên đã cho phép Mỹ tự do tiến hành chuyển quân và tấn công bờ biển miền Bắc Việt Nam. Năm 1974, sau một cuộc va chạm, Trung Quốc đã thiết lập quyền kiểm soát đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.

Trong chiến tranh, Việt Nam đã thể hiện được sức mạnh của lực lượng vũ trang của mình ở trên bộ. Các chiến hạm Liên Xô đã bảo đảm nhiệm vụ bảo vệ bờ biển Việt Nam, giao thông vận tải của Việt Nam. Các tàu Liên Xô cũng đã đóng vai trò lớn trong việc ngăn chặn Mỹ can thiệp vào cuộc chiến khi Mỹ duy trì sự hiện diện của cụm tàu sân bay do tàu sân bay Constellation dẫn đầu ở gần bờ biển Việt Nam trong 3 tháng.

Hà Nội và Moskva ký kết hiệp định thành lập trạm bảo đảm vật chất-kỹ thuật của Hải quân Liên Xô ở Cam Ranh, căn cứ hải quân lớn nhất của Liên Xô ở nước ngoài. Sau khi Liên Xô sụp đổ, Việt Nam đã có cách nhìn khác về sự cần thiết phát triển chính sách biển. Tấm gương điển hình đối với Việt Nam là trường hợp Singapore, quốc gia đã từ một mảnh đất nhỏ ở cực nam eo biển Malacca trở thành một trong những nước dẫn đầu thế giới về GDP trên đầu người nhờ phát triển hạ tầng cảng biển và thương mại đường biển.

Khác với Singapore, Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia, Việt Nam có hạ tầng cảng biển cực kỳ yếu. Ba hải cảng lớn nhất của Việt Nam là Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đà Nẵng thua xa Hongkong, Tanjung Pelepas và Port Klang của Malaysia, Laem Chabang của Thái Lan về doanh thu và chất lượng dịch vụ. Sự tụt hậu này có tác động tiêu cực tới khả năng cạnh tranh của kinh tế Việt Nam và cản trở việc phát triển khai thác dầu mỏ và các tài nguyên khác.

Năm 1999, Chính phủ Việt Nam đã công bố chương trình 10 năm phát triển hạ tầng cảng biển và nó đã chỉ được thực hiện một phần. Mặc dù vậy, Việt Nam đã tìm được một đồng minh chiến lược là đối tác lâu đời Ấn Độ, quốc gia từ thập niên 1990 đã phát triển học thuyết “Hướng đông” và đang muốn bám trụ ở Đông Nam Á. Mùa thu năm 2011, tập đoàn dầu khí Videsh của Ấn Độ và PetroVietnam của Việt Nam đã ký hợp đồng đối tác 3 năm trong lĩnh vực thăm dò, khai thác các mỏ dầu khí ở Biển Đông.

Gần đây, các yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với phần lớn Biển Đông, các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa khiến cho tình hình khu vực Biển Đông trở nên căng thẳng. Ấn Độ cảm thấy ngày càng tự tin ở Đông Nam Á và vì Việt Nam họ sẵn sàng chấp nhận sự gia tăng căng thẳng nhất định trong quan hệ với láng giềng khổng lồ.

Một đối tác khác của Việt Nam trong cuộc đối đầu với các thách thức trong khu vực là Mỹ. Sau khi Liên Xô tan vỡ, Hà Nội và Washington đã chủ trương vượt qua sự thù địch do chiến tranh để lại. Năm 2000, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đã thăm Việt Nam lần đầu tiên sau chiến tranh. Năm 2010 và 2011, Mỹ và Việt Nam đã tiến hành đợt trao đổi giao lưu hải quân chung và đây đã trở thành hoạt động thường niên. 
 
Xây dựng hải quân
 
Việt Nam nhận thức được rằng, Việt Nam không thể tham gia cuộc chạy đua vũ khí hải quân do là nước yêu chuộng hòa bình. Tuy nhiên, kinh nghiệm các cuộc xung đột trước đó cho thấy rằng, để bảo vệ các lợi ích quốc gia của mình, Việt Nam phải có tiềm lực hải quân đủ mạnh. Trong những năm đầu 2000, Hà Nội chủ trương xây dựng một hạm đội ven bờ hiện đại và có khả năng chiến đấu cao. Đối tác chính của Việt Nam trong lĩnh vực này là Nga và ở mức độ thấp hơn là Ấn Độ.

Theo cách tiếp cận của Việt Nam, hạm đội là dùng để bảo vệ lãnh thổ ven bờ và vùng đặc quyền kinh tế của mình. Việt Nam không cố gắng thiết lập ưu thế trên biển một khi xảy ra xung đột, nhưng dự định có được khả năng gây tổn thất đủ lớn cho đối phương và ngăn chặn đối phương thi hành chính sách fait accompli (việc đã rồi). Đây sẽ là yếu tố kiềm chế quan trọng để bất kỳ ai có dã tâm phải suy nghĩ thật kỹ.

Hạm đội Việt Nam phải có khả năng đối phó với các mối đe dọa trên biển phi truyền thống (buôn lậu, hải tặc, buôn bán ma túy…), cũng như sẵn sàng cho một cuộc xung đột ít có khả năng xảy ra song không thể loại trừ khả năng này.

Theo các nhiệm vụ chính trị và quân sự được giao, Hải quân Việt Nam trong một thời gian dài thực tế chỉ là “hạm đội muỗi” với toàn tàu nhỏ, nay hướng đến thành lập một hạm đội tàu ngầm hùng mạnh, đóng các frigate hạng nhẹ và corvette hiện đại, cũng như các tàu xuồng trang bị pháo-tên lửa.

Tàu ngầm thông thường
Tàu ngầm Projekt 636 Varshavyanka
Dự án lớn nhất mà Việt Nam đang thực hiện trong lĩnh vực xây dựng hải quân là việc mua sắm từ Nga 6 tàu ngầm thông thường Projekt 636 Kilo.

Hợp đồng này được ký năm 2009, trị giá 1, 8 tỷ USD, tàu ngầm đầu tiên đã được khởi đóng tại Admiralteiskye Verfi ở St. Petersburg vào tháng 8/2010.

Nga cũng sẽ hỗ trợ xây dựng căn cứ tàu ngầm và hạ tầng đi kèm tại Việt Nam. Chi phí xây dựng căn cứ ước 1,5-2,1 tỷ USD.

Các tàu ngầm thông thường hiện đại được trang bị tên lửa chống hạm (các tàu ngầm Việt Nam nhiều khả năng sẽ được trang bị hệ thống tên lửa Club-S), là một trong những chủng loại vũ khí trang bị hải quân tối ưu nhất xét từ giác độ hệ số chi phí/hiệu quả.

Khi cần, Việt Nam sẽ có thể bảo đảm sự hiện diện thường xuyên của một số tàu ngầm ở ngoài khơi, điều này sẽ cho phép trong trường hợp xung đột tranh giành ưu thế cục bộ trên biển trong một thời gian nhất định.

Ấn Độ với hải quân sở hữu 10 tàu ngầm thông thường do Nga đóng cũng sẽ giúp đỡ Việt Nam khai thác tàu ngầm Nga và đào tạo các thủy thủ đoàn. Cũng cần lưu ý rằng, Hải quân Việt Nam còn có trong biên chế 2 tàu ngầm siêu nhỏ lớp Yugo mua từ CHDCND Triều Tiên vào năm 1997. 
Tàu chiến biển xa 
 
Thành phần quan trọng thứ hai của hạm đội đổi mới Việt Nam là các tàu chiến lớp corvette hạng nặng/frigate hạng nhẹ. Năm 2011, Nga đã chuyển giao cho Việt Nam 2 tàu hộ vệ lớp Projekt 11661E Gepard 3.9 đóng tại Nhà máy Zelenodolsk mang tên A.M. Gorky theo thiết kế của Viện thiết kế Zelenodolsk (ZPKB). Hợp đồng này trị giá 350 triệu USD được ký vào năm 2006.

Các chiến hạm này trong biên chế Hải quân Việt Nam được đặt tên lửa HQ-011 Đinh Tiên Hoàng và HQ-012 Lý Thái Tổ, có lượng giãn nước 2.100 tấn và tốc độ tối đa đến 27 hải lý/h. Vũ khí chính của tàu là hệ thống tên lửa chống hạm Uran-E với cơ số đạn gồm 8 quả tên lửa chống hạm Kh-35E.
Chiến hạm HQ-011 Đinh Tiên Hoàng
Sau khi nhận được 2 tàu Gepard đầu tiên, Việt Nam đã chuyển điều khoản phụ của hợp đồng thành hợp đồng cứng, đóng thêm 2 tàu loại này. Khác với 2 tàu đầu tiên, các tàu này sẽ có vũ khí chống ngầm mạnh hơn.

Mùa thu năm 2011, có tin Việt Nam đang đàm phán với công ty Damen Schelde Naval Shipbuilding của Hà Lan về khả năng mua sắm 4 chiến hạm lớp SIGMA, loại tàu đang được đóng cho Indonesia và Morocco. Lớp tàu này có một số biến thể với lượng giãn nước từ 1.700-2.400 tấn.
Tàu hộ tống lớp SIGMA
Xét về tính năng và vũ khí, các tàu lớp SIGMA tương đương với Gepard của Nga, nhưng có giá cao hơn: tùy thuộc biến thể cụ thể, Việt Nam sẽ phải trả cho các tàu này 230-400 triệu USD/chiếc. Nếu hợp đồng sẽ được ký kết thì 2 tàu SIGMA đầu tiên dự định đóng ở Hà Lan, 2 tàu còn lại đóng tại Việt Nam.

Nhiều chuyên giá đánh giá khá thấp tiềm lực chiến đấu của các tàu Geparad và SIGMA khi chê trách các hệ thống chống ngầm và phòng không là yếu. Được đánh giá ngược lại lớp tàu corvette hạng nặng/frigate hạng nhẹ là các tàu ngầm thông thường và tàu xuồng tên lửa cỡ nhỏ. Tuy nhiên, các tàu chiến nổi biển xa cũng có hàng loạt ưu thế mà người ta thường không chú ý.
HQ-012 Lý Thái Tổ
Khác với các tàu xuồng tên lửa nhỏ, các tàu như Gepard của Nga có khả năng tiến hành tuần tra khá lâu ở khoảng cách khá xa bờ biển Việt Nam. Có trong tay 4-8 tàu chiến loại này, Việt Nam có khả năng bảo đảm sự hiện diện của 1-3 tàu ở Biển Đông. Kinh nghiệm đụng độ năm 1974 và 1988 đã cho thấy rằng, các cuộc va chạm hải quân quy mô nhỏ có thể có những hậu quả chính trị lâu dài. Sự hạn chế về thời gian, lực lượng tham gia và tổn thất của cả hai phía của các cuộc đụng độ đó đã cho phép đối thủ thực thi thành công chính sách “việc đã rồi” mà không thèm chú ý đến cộng đồng quốc tế.

Việc Việt Nam sở hữu các tàu chiến biển xa hiện đại, được trang bị hệ thống tên lửa chống hạm uy lực mạnh làm tăng mạnh rủi ro đối với hạm đội kẻ địch và làm giảm xác suất tiến hành một chiến dịch chóng vánh hiệu quả theo kịch bản năm 1974 và 1988. Hơn nữa, khác với tàu ngầm, các tàu chiến mặt nước là biểu hiện dễ thấy nhất của sức mạnh hải quân của quốc gia.

Các tàu ngầm có khả năng đóng vai trò then chốt trong trường hợp nổ ra xung đột, nhưng không phải là công cụ hiệu quả để ngăn chặn nó. Ta nên nhớ lại cuộc khủng hoảng năm 1977 xung quanh quần đảo Falklands/Malvinas, khi mà sự hiện diện của một tàu ngầm nguyên tử Anh đã không giúp gì nhiều trong việc kiềm chế xung đột và đã không thể ngăn chặn cuộc chiến tranh năm 1982.

Ngoài ra, đối với Việt Nam, các chiến hạm mặt nước cỡ lớn là công cụ ngoại giao hải quân và phô trương sức mạnh quốc gia, cũng như là biểu tượng dễ thấy của uy thế quốc gia phục vụ tuyên truyền đối nội.

Hiện tại, Hải quân Việt Nam còn sở hữu 5 tàu hộ vệ lạc hậu Projekt 159 (3 tàu 159А và 2 tàu 159АE, HQ-09/11/13/15/17) mà Liên Xô chuyển giao trong thập niên 1960-1970. Các tàu này sắp tới chắc chắn sẽ bị loại khỏi biên chế hạm đội Việt Nam.
Hệ thống tên lửa bờ biển K-300P Bastion-P
Các tàu ven bờ và các hệ thống tên lửa phòng thủ bờ biển
Nền tảng của hạm đội Việt Nam là các tàu xuồng tên lửa cỡ nhỏ do Liên Xô và Nga đóng.

Trong những năm 1990-đầu những năm 2000, Hải quân Việt Nam đã mua của Nga 6 tàu tên lửa Projekt 1241RE (HQ-371-374/377/378), mỗi tàu mang 4 tên lửa chống hạm P-20M. Giá rẻ, khai thác đơn giản và sức mạnh hỏa lực cao của các tàu tên lửa Nga này đã tạo điều kiện cho việc ký kết vào năm 2005 hợp đồng lớn cung cấp 12 tàu tên lửa Projekt 1241.8. Hợp đồng này ước trị giá khoảng 1 tỷ USD.

Hai tàu đầu tiên (HQ-375/336) được đóng tại Nhà máy đóng tàu Vympel ở Rybinsk, Nga và được chuyển giao cho Hải quân Việt Nam vào năm 2007-2008. Từ năm 2010, Việt Nam đã bắt đầu đóng theo giấy phép một loạt 10 tàu loại này. Projekt 1241.8 có sức mạnh hỏa lực tăng mạnh so với các tàu Projekt 1241RE. Thay cho 4 tên lửa chống hạm P-20, Projekt 1241.8 được lắp 16 tên lửa chống hạm Kh-35.
Tàu tên lửa Molnya Projekt 1241.8 của Hải quân Việt Nam
Các tên lửa chống hạm Kh-35 của Nga là nền tảng tiềm lực chiến đấu của Hải quân Việt Nam. Loại tên lửa dưới âm nhỏ này có tầm bắn 130 km, còn biến thể hiện đại hơn là Kh-35UE có tầm bắn 260 km. Tên lửa chống hạm Kh-35 cho phép tác chiến hiệu quả chống các tàu chiến mặt nước có lượng giãn nước đến 5.000 tấn và các tàu hỗ trợ có lượng giãn nước đến 10.000 tấn của đối phương.

Năm 2004-2008, Tập đoàn Vũ khí tên lửa chiến thuật (KTRV) của Nga đã cung cấp cho Việt Nam 120 quả tên lửa chống hạm Kh-35E. Tháng 10/2010, Nga và Việt Nam đã ký hiệp định liên chính phủ về việc hợp tác phát triển và sản xuất hệ thống tên lửa Uran-EV trang bị tên lửa chống hạm Kh-35EV phục vụ riêng cho nhu cầu của hạm đội Việt Nam.
Bệ phóng tên lửa chống hạm Kh-35E / Uran-E trên tàu hộ vệ tên lửa HQ-012 Lý Thái Tổ
Cần lưu ý đến một thành phần quan trọng nữa của Hải quân Việt Nam - đó là  các hệ thống tên lửa bờ biển cơ động K-300P Bastion-P trang bị tên lửa chống hạm siêu âm hạng nặng Yakhont có tầm bắn đến 300 km do Tập đoàn công nghiệp quốc phòng NPO Mashinostroernia phát triển.

Hợp đồng cung cấp 2 hệ thống Bastion-P trị giá gần 300 triệu USD đã được ký vào năm 2005 và hoàn thành vào năm 2010-2011.

Có khả năng đến năm 2015, Nga sẽ bán thêm cho Việt Nam các hệ thống tên lửa bờ biển cơ động. 
K-300P Bastion-P
Trong thành phần của hệ thống tên lửa bờ biển cơ động K-300P gồm có 4 xe bệ phóng lắp trên khung gầm xe MZKT-7930 (mỗi bệ phóng mang 2 tên lửa), 1 xe chỉ huy chiến đấu, các xe tiếp đạn. Bản thân các tên lửa được cất giữ trong các ống phóng kín, tạo điều kiện thuận lợi cho khai thác và tăng hạn sử dụng cho tên lửa chống hạm. K-300P có thể được tăng cường hệ thống phát hiện tầm xa ngoài đường chân trời và bám mục tiêu mặt nước Monolit-B triển khai trên bờ biển hoặc hệ thống chỉ thị mục tiêu lắp trên trực thăng.
Các tàu tuần tra và tàu pháo 
Năm 1999-2001, Việt Nam đã tiến hành đóng 2 tàu tuần tra PS-500 (HQ-381/383) theo thiết kế của Viện thiết kế phương Bắc (SPKB) có lượng giãn nước gần 500 tấn. Các tàu lớp này có vũ khí tên lửa và pháo mạnh (tên lửa chống hạm Kh-35, các ụ pháo 76 mm và 30 mm) và có tính năng đi biển cao nhờ 2 ống dẫn tiến phụt nước mạnh và hình dáng thân kiểu chữ V sâu.

Việt Nam đang hoàn tất dự án đóng 6 tàu tuần tra Projekt 10412 Svetlyak do Viện thiết kế hải quân trung ương Almaz của Nga thiết kế. Các tàu nhỏ này có lượng giãn nước gần 400 tấn, dùng để thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ bờ biển và  không được trang bị vũ khí tên lửa mạnh. Hai tàu đầu tiên (HQ-261/263)đã đóng xong năm 2002, 2 chiếc tiếp theo (HQ-264/265) hoàn thành vào năm 2011. Cặp tàu thứ ba đang đóng hoàn thiện tại Vladivostok, Nga và sẽ được chuyển giao cho Việt Nam trong năm 2012. Chi phí đóng 6 tàu này là gần 110 triệu USD
Hai tàu tuần tra lớp Projekt 10412 mang số hiệu nhà máy 044, 045 tại Nga
trước khi bàn giao cho Việt Nam ngày 20.10.2011
Tháng 1/2012, Hải quân Việt Nam được chuyển giao tàu pháo đầu tiên lớpTT400TP là HQ-272. Tàu này có lượng giãn nước gần 400 tấn, được trang bị 1 ụ pháo 76mm và 1 ụ pháo 30 mm. Tàu này do Nhà máy đóng tàu Z-173 thuộc Công ty đóng tàu Hồng Hà ở Hải phóng tự thiết kế. Dự kiến, Việt Nam sẽ đóng thêm ít nhất 2 tàu loại này. Tàu này được thiết kế dựa trên các thiết kế PS-500 và Projekt 10412 của Nga. 
Tàu HQ-272 thử nghiệm trên biển
Năm 1979-1983, Hải quân Việt Nam đã nhận được 8 tàu tên lửa Projekt 205 (lượng giãn nước gần 200 tấn, vũ khí gồm 4 tên lửa chống hạm P-15 và 2 ụ pháo 30 mm) và 16 tàu phóng lôi Projekt 206 (lượng giãn nước gần 150 tấn, vũ khí gồm 4 ống phóng lôi 533 mm và 2 ụ pháo 30 mm). Các tàu này sẽ được loại khỏi biên chế.
Không quân hải quân
 
Nền tảng không quân hải quân của Hải quân Việt Nam là các trực thăng đa năng Ка-28 của Nga, dùng để triển khai trên các tàu hộ vệ Projekt 11661E Gepard 3.9. Chức năng chính của các trực thăng này là chống ngầm, ngoài ra còn có biến thể trực thăng radar phát hiện tầm xa Ка-31.

Năm 2010, Việt Nam đã ký với Công ty Viking Air của Canada hợp đồng mua 6 máy bay tuần tra hạng nhẹ DHC-6 Twin Otter. Các máy bay này sẽ được chuyển giao cho Hải quân Việt Nam vào năm 2012-2014. Hợp đồng có trị giá ước 30-40 triệu USD. Các máy bay này sẽ là thành phần quan trọng của hệ thống nắm bắt thông tin tình hình tại các vùng biển ven bờ của Việt Nam. 
Máy bay tuần tra hạng nhẹ DHC-6 Twin Otter Series 400
 
Ngoài các chiến hạm thuộc các lớp cơ bản, Việt Nam còn sở hữu một đội tàu hỗ trợ, xuồng tuần tra  và tàu quét lôi mà việc đánh giá chúng chưa được thực hiện ở đây.

Như vậy, Hải quân Việt Nam đang trong tình trạng phát triển mạnh mẽ và quá độ từ một hạm đội ven bờ lạc hậu, không có khả năng bảo vệ thích đáng ngay cả vùng biển chủ quyền sang một hạm đội khu vực không lớn, nhưng hiện đại và đủ mạnh. Vào cuối thập kỷ này, Hà Nội dự định xây dựng được một hạm đội mà bản thân sự hiện diện của nó sẽ buộc những kẻ có ý đồ xâm lược phải kiềm chế, từ bỏ những mưu toan thiết lập quyền kiểm soát đối với Biển Đông bằng vũ lực.
 
Theo Prokhor Yurevich Tebin, nghiên cứu sinh Viện Kinh tế thế giới và Quan hệ quốc tế, Viện Hàn lâm khoa học Nga // NVO, 20.4.2012/vietnamdefence

Chuyên gia Hoa kiều so sánh Su-27/30 của VN và TQ

Cùng chủng loại, giống nhau cơ bản về tính năng nhưng Su-27/30 của Việt Nam chỉ tập trung sức mạnh vào một số nhiệm vụ chứ không đa dạng như nguyên bản.
(ĐVO) Trên đây là nhận định của ông Andrei Chang, một chuyên gia quân sự gốc Hoa mang quốc tịch Canada. Ông là một cây bút kỳ cựu của Tạp chí quân sự Khán Hòa có trụ sở tại Canada, từng có nhiều bài viết về dòng máy bay Sukhoi có trong biên chế của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc của ông Andrei Chang:

Trong biên chế Không quân Việt Nam có khoảng 12 chiếc Su-27SK và 4 chiếc Su-27UBK, Trung Quốc có khoảng 78 chiếc Su-27SK nhập khẩu trực tiếp từ Nga và không có chiếc Su-27UBK nào.

Đối với biến thể Su-30, Trung Quốc có trong biên chế khoảng 76 chiếc Su-30MKK, một biến thể Su-30MK phát triển riêng, ngoài ra, không quân hải quân nước này còn sở hữu 24 chiếc Su-30MK2.

Tính đến năm 2012, Không quân Việt Nam sẽ có khoảng 32 chiếc Su-30MK2, biến thể được thiết kế cho nhiệm vụ đánh biển. Xét ở tiêu chí số lượng, Không quân Trung Quốc đang có sự áp đảo, tuy nhiên, ông Andrei Chang nhận định lợi thế không hoàn toàn thuộc về Trung Quốc.

Các hợp đồng mua sắm tiêm kích dòng Su-27/30 giữa Trung Quốc và Việt Nam với Nga có khá nhiều điểm khác nhau, đầu tiên là phương thức thanh toán, sau đó là một số khác biệt trong thiết kế.

Trong khi Trung Quốc gần như phải thanh toán 100% cho các hợp đồng mua máy bay bằng USD, các hợp đồng với Việt Nam lại hoàn toàn ngược lại. Theo đó, hợp đồng mua 4 chiếc Su-30MK2 đầu tiên của Việt Nam trị giá 110 triệu USD, trong đó 70% giá trị hợp đồng được thanh toán bằng hình thức trao đổi hàng hóa, Việt Nam chỉ phải trả 30% giá trị bằng ngoại tệ.

Tuy nhiên, đó chưa phải là điều quan trọng nhất, 4 chiếc Su-30MK2V được chuyển giao cho phía Việt Nam là một biến thể tương tự Su-30MKK của Trung Quốc nhưng các máy bay này lại được thiết kế cho nhiệm vụ chiếm ưu thế trên không, phần mềm tấn công của 4 máy bay này không được cài đặt mang tên lửa chống hạm.

Theo một nguồn tin chưa được xác nhận từ Nga, Việt Nam đã hy sinh khả năng đa nhiệm của Su-27SK mà chỉ tập trung vào nhiệm vụ không đối không nhằm tạo nên lợi thế trước lực lượng không quân hùng hậu của đối phương.

Do chỉ tập trung vào nhiệm vụ chiếm ưu thế trên không, hoặc không đối hải chứ không hoàn toàn đa dạng như nguyên bản, các máy bay Su-27, Su-30MK2 của Việt Nam sẽ có nhiều lợi thế hơn, ông Chang nhận định.

Ông Chang lưu ý thêm, trong biên chế Không quân Việt Nam có hai chiếc Su-27PU được nhận trực tiếp từ Không quân Nga (bồi thường cho 2 chiếc Su-27SK bị rơi trên đường vận chuyển đến Việt Nam). Hai chiếc này chắc chắn có nhiều khác biệt so với các biến thể xuất khẩu.

Đến năm 2008, Việt Nam tiếp tục đặt hàng thêm 6 chiếc Su-30MK2V vào năm 2008, năm 2009 tiếp tục đặt hàng thêm 8 chiếc và đợt đặt hàng lớn nhất gần đây là 12 vào năm 2010. Tất cả các hợp đồng nói trên dự kiến sẽ chuyển giao đầy đủ cho Việt Nam vào năm 2012.

Vấn đề được ông Chang lưu tâm là có sự khác biệt lớn nào giữa các máy bay Su-30MK2 của Việt Nam và Trung Quốc hay không?

Nguồn tin công nghiệp hàng không Nga chỉ tiết lộ, Su-30MK2 của Việt Nam chỉ có vài “cải tiến nhỏ”, vậy cải tiến nhỏ ở đây là những gì?

Ông Chang cho rằng, những cải tiến nhỏ có thể cho phép máy bay Su-30MK2 của Việt Nam mang nhiều vũ khí hiện đại hơn so với Su-30MK2 của Trung Quốc, nhiệm vụ của các máy bay này là tập trung cho không đối hải.

Theo ông Chang, đường lối quân sự của Việt Nam chủ yếu tập trung vào nhiệm vụ ngăn chặn và phòng ngự. Một cuộc tấn công quân sự nhắm vào Việt Nam sẽ chỉ đến từ đường không hoặc đường biển, tập trung sức mạnh của các tiêm kích vào hai nhiệm vụ chính nói trên sẽ cho phép Việt Nam xây dựng một thế trận phòng ngự hiệu quả.

Với một lực lượng không quân nhỏ, ngay cả khi số lượng máy bay chiến đấu tiên tiến khá ít ỏi, nhưng nếu sử dụng đúng cách vẫn tạo ra một hiệu quả chiến đấu mạnh mẽ, đặc biệt nếu các máy bay này có khả năng tích hợp các hệ thống vũ khí hiện đại, ông Chang bình luận.

Ông Chang nhận định thêm, xét về đơn giá, Việt Nam đã mua máy bay Su-27SK với giá khoảng 31,5 triệu USD/chiếc. Đơn giá này cao hơn khoảng 3 triệu USD so với giá bán cho các quốc gia khác. Điều này có thể nhận định rằng các máy bay này có nhiều thiết bị hiện đại hơn mặc dù buồng lái vẫn theo kiểu những năm 1980.

Đối với máy bay Su-30MK2, sau khi thực hiện đầy đủ các hợp đồng, Việt Nam là quốc gia có nhiều máy bay Sukhoi nhất ở Đông Nam Á và đứng thứ 3 ở khu vực châu Á, sau Trung Quốc và Ấn Độ.

Sukhoi đã quyết định thành lập một trung tâm các máy bay Sukhoi tại Việt Nam để tiện cho việc bảo dưỡng cho Không  quân Việt Nam và cả khu vực. (Thông tin này vẫn chưa được kiểm chứng vì theo một số nguồn tin, trung tâm nói trên đặt tại Malaysia, (>> chi tiết)
Trong khi đó, các máy bay Su-27SK, Su-30MK2  của Trung Quốc phải thực hiện các hoạt động bảo dưỡng gián tiếp qua Ukraine (do sao chép bất hợp pháp Su-27 để chế tạo J-11). Tương lai Trung Quốc phải tự bảo dưỡng các máy bay của mình, ngay cả những hoạt động sửa chữa lớn đều phải tự thực hiện.

Bên cạnh đó, sự thay đổi trong tương lai của các máy bay Su-27, Su-30MK2 của Việt Nam chủ yếu đến từ hệ thống vũ khí.

Các máy bay Su-30MK2 của Việt Nam và Trung Quốc đều có khả năng mang tên lửa chống tàu Kh-31A, tên lửa hành trình không đối đất Kh-29TE tầm bắn 30km. Về vũ khí không đối không, cả hai bên đều được trang bị tên lửa không đối không tầm ngắn R-73, tên lửa không đối không tầm trung R-27. Trong khi Trung Quốc phải nhập khẩu tên lửa R-27T/R từ Ukraine thì Việt Nam lại được nhập khẩu các tên lửa này trực tiếp từ Nga. Loại tên lửa không đối không tầm trung hiện đại R-77 không được Nga bán cho cả hai bên.

Kết thúc bài viết của mình, ông Chang kết luận, lợi thế về số lượng đang nằm trong tay Trung Quốc nhưng lợi thế về sự đa dạng trong lựa chọn vũ khí hiện đại lại thuộc về Việt Nam.

Chỉ tập trung sức mạnh vào nhiệm vụ không đối không hoặc không đối hải có vẽ lỗi thời với xu hướng đa nhiệm của thế giới nhưng xét trên đường lối quân sự và những đối thủ tiềm tàng của Việt Nam thì đây là một lối đi hết sức đúng đắn, cho phép một số lượng máy bay khiêm tốn có thể bẽ gãy các đợt tấn công bằng đường không hay đường biển của đối phương.
Theo BAODATVIET.VN

Thứ Hai, 2 tháng 7, 2012

Biển Đông: Chiến tranh sẽ không còn xa do “chủ nghĩa Monroe TQ”?

Thứ hai 02/07/2012 08:16
(GDVN) - Học giả Mỹ cho rằng, Mỹ chưa bao giờ đưa ra tuyên bố chủ quyền như Trung Quốc đối với biển Đông, theo đó nguy cơ chiến tranh sẽ sớm xảy ra.

Các giáo sư, học giả của Học viện Chiến tranh Hải quân Mỹ.
Trang mạng sina.com.cn dẫn bài viết từ tờ “Pháp chế văn tụy báo” ngày 30/6 cho biết, cách đây không lâu, Học viện Chiến tranh Hải quân Mỹ đã tổ chức một diễn đàn chiến lược thường niên. Tại diễn đàn, nhiều học giả cho rằng, Trung Quốc đang bắt chước Mỹ trong thế kỷ 19, thúc đẩy chủ nghĩa Monroe của họ, cho rằng chính sách duyên hải của Trung Quốc là “hăm dọa”.
Chiến tranh không còn xa do “chủ nghĩa Monroe Trung Quốc”?
Năm 1823, Tổng thống Mỹ James Monroe và Ngoại trưởng Mỹ John Quincy Adams đã đưa ra một nguyên tắc ngoại giao mới, tuyên bố phần lớn các hòn đảo và vùng biển của biển Caribbe và vịnh Mexico là “sân sau” của Mỹ, Mỹ sẵn sàng tiến hành chiến đấu để bảo vệ “lợi ích quốc gia cốt lõi” này bất cứ lúc nào.
Monroe và Adams còn yêu cầu, các thế lực hải quân ngoài khu vực như Anh không được hoạt động ở duyên hải của Mỹ. Tư tưởng cốt lõi của bài phát biểu này sau này được cho là “chủ nghĩa Monroe”, đã có ảnh hưởng sâu sắc đến chính sách ngoại giao của Mỹ.
Ngay từ tháng 7/2010, cựu chỉ huy Hải quân Mỹ, chuyên gia vấn đề Trung Quốc, Paul Ghiara và Chủ nhiệm Chương trình An ninh châu Á-Thái Bình Dương, Trung tâm An ninh Mỹ mới, Patrick Cronin đã có bài viết trong tạp chí “Nhà ngoại giao” cho rằng, Bắc Kinh nâng vấn đề biển Đông lên thành lợi ích cốt lõi quốc gia, có nghĩa là “họ sẵn sàng tiến hành chiến tranh bảo vệ chủ quyền trên biển ở Đông Nam Á bất cứ lúc nào”, đồng thời Trung Quốc tiến hành phản ứng gay gắt với cuộc diễn tập ở biển Hoàng Hải giữa Mỹ-Hàn, một loạt động thái này đều khiến người ta liên tưởng tới chủ nghĩa Monroe của Mỹ trong thế kỷ 19.

Năm 2009, tàu khảo sát USNS Impeccable của Hải quân Mỹ bị tàu thuyền Trung Quốc bao vây trên biển Đông.
Tháng 5/2012, giáo sư về các vấn đề quốc tế, Học viện Chính trị Kennedy, Đại học Harvard, Stephen Walter đã có bài viết “Ứng phó với chủ nghĩa Monroe” của Trung Quốc trên tờ “Thời báo New York”. Bài viết cho rằng, trong thế kỷ 19, Mỹ, một nước đang trỗi dậy, đã đưa ra chủ nghĩa Monroe, đồng thời từng bước đuổi các cường quốc châu Âu ra khỏi tây bán cầu.
Walter nói, tương tự, một nước Trung Quốc mạnh sẽ không muốn Mỹ liên minh, liên kết và duy trì sự hiện diện quân sự mạnh ở trước “cửa nhà” của họ, vì vậy “chắc chắn sẽ nỗ lực trục xuất Quân đội Mỹ khỏi khu vực châu Á-Thái Bình Dương”.
Nhưng Mỹ hoàn toàn sẽ không cam chịu rút khỏi châu Á-Thái Bình Dương, bởi vì một khi Trung Quốc tạo được sự thống trị ở khu vực này, Bắc Kinh sẽ thò cái “vòi” tới các khu vực xa hơn. Nếu nền kinh tế Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng, thì rất có khả năng tiến hành một cuộc cạnh tranh an ninh quyết liệt với Mỹ.
Walter cho rằng, giữa các nước thường chuẩn bị cho trường hợp xấu nhất. Bắc Kinh hiện đã lấy một phần nguồn lực liên tục tăng trưởng để phát triển sức mạnh quân sự, trong tương lai sẽ làm như vậy, đồng thời “chắc chắn sẽ tạo ra môi trường an ninh xung quanh có hiệu quả cho bản thân”.
Bài viết cho rằng, quan hệ kinh tế căng thẳng giữa Trung-Mỹ hiện nay làm cho “hai bên đều có đủ lý do để đưa sự cạnh tranh vào phạm vi có thể kiểm soát”, nhưng hiện tượng này hoàn toàn không thể lâu dài. Bởi vì, về cơ bản, kinh tế Trung Quốc là “hướng ra bên ngoài”, khác với Liên Xô tự cung tự cấp thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc “phụ thuộc vào thị trường và nguyên vật liệu ở nước ngoài”, điều này sẽ trở thành “nguyên nhân lớn làm cho Bắc Kinh can thiệp vào các vấn đề quốc tế, xây dựng hải quân tầm xa sau này”. Trong khi đó, sự phát triển của Trung Quốc sẽ chỉ có thể gây ra nhiều xung đột hơn giữa Trung-Mỹ.

Hải quân Mỹ và Nhật Bản tổ chức diễn tập quân sự trên biển.
Để ngăn ngừa xung đột, Mỹ đang không ngừng củng cố quan hệ đồng minh hiện có ở châu Á và ra sức phát triển các đối tác mới. Để đáp trả, Trung Quốc đang khuyến khích các nước láng giềng “rời xa Washington và chấp nhận bá quyền thiện chí của Bắc Kinh”.

Nhưng “hầu hết các nước láng giềng vẫn đầy lo ngại đối với Trung Quốc”, điều này làm cho Trung Quốc “cảm thấy bị cô lập”, từ đó dẫn đến xác suất xảy ra xung đột tiếp tục gia tăng.
Đương nhiên, chiến tranh Trung-Mỹ hoàn toàn không phải không thể tránh được. Walter cho rằng, hai nước đều có vũ khí hạt nhân và chính phủ hai bên đều hiểu rõ, chiến tranh sẽ là thảm họa. Nếu các nhà lãnh đạo luôn duy trì được sự sáng suốt và thận trọng, sẽ có thể duy trì được hòa bình.

Một khi có một bên xuất hiện một nhà lãnh đạo “thiếu kinh nghiệm, liều lĩnh và quá tự tin”, chiến tranh sẽ xảy ra bất cứ lúc nào. Nhưng lịch sử cho thấy, “xác suất có thể luôn duy trì sự sáng suốt của tầng lớp lãnh đạo hai nước cạnh tranh hoàn toàn không cao”.
Chủ nghĩa Monroe phiên bản Trung Quốc càng “bá đạo”?
Đối với việc phải chăng Bắc Kinh đang thúc đẩy chủ nghĩa Monroe, các học giả Mỹ đã đưa ra nhiều quan điểm khác nhau. Ngày 22/6, giáo sư Học viện Chiến tranh Hải quân Mỹ, James Holmes có bài viết “Chủ nghĩa Monroe của Trung Quốc” trên tạp chí “Nhà ngoại giao” Mỹ cho rằng, chủ nghĩa Monroe phiên bản Trung Quốc sẽ “bá đạo hơn nhiều” so với nguyên bản.
Bài viết cho rằng, Trung Quốc hiện nay có sự khác biệt to lớn so với Mỹ thế kỷ 19. Mặc dù chủ nghĩa Monroe cho phép các cường quốc châu Âu duy trì lợi ích hiện có của tân đại lục (châu Mỹ), nhưng rõ ràng phản đối họ tiếp tục bành trướng.

Mỹ tuyên bố, bất cứ “hành vi nào khôi phục sự thống trị đế quốc đối với các nước châu Mỹ” đều bị coi là hành vi không hữu hảo đối với Mỹ. Điều này có nghĩa là, một khi các nước Mỹ Latinh thoát khỏi xiềng xích – sự thống trị của các cường quốc, trở nên độc lập, họ sẽ có thể giành được tự do vĩnh viễn, vì vậy rất ít bị phản đối.


Hạm đội Nam Hải, Hải quân Trung Quốc thường xuyên tiến hành các cuộc diễn tập đổ bộ trên biển Đông, khoa mục diễn tập là đổ bộ đoạt lấy các đảo đá. Điều này rõ ràng là có ý đồ răn đe vũ lực đối với các nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc trên biển Đông.
Trong khi đó, các động thái của Trung Quốc làm cho các nước châu Á khác “có rất nhiều lý do lo ngại họ sẽ sử dụng sức mạnh quân sự ngày càng tăng lên như thế nào”. Đến nay, “rất ít người phủ nhận vai trò ảnh hưởng của Bắc Kinh đối với các vùng biển xung quanh”, nhưng rốt cuộc đóng vai trò ảnh hưởng thế nào lại rất quan trọng.
Bài viết cho rằng, chính sách duyên hải của Trung Quốc là “hiếu chiến, mức độ chọc ngoáy công việc của người khác cao hơn chủ nghĩa Monroe ở bất kỳ thời điểm nào”. Trước hết, “Washington chưa từng tuyên bố chủ quyền đối với biển Caribbe như Bắc Kinh đối với biển Đông”.

Thứ hai, “Mỹ chưa từng hạn chế hoạt động của hải quân nước khác ở duyên hải, trong khi Trung Quốc lại luôn phản đối cả hoạt động thông thường của tàu sân bay Mỹ ở biển Hoàng Hải”.
Bài viết cho rằng, Trung Quốc cáo buộc tàu sân bay Mỹ hoạt động ở duyên hải làm cho Bắc Kinh nằm trong phạm vi tấn công của máy bay chiến đấu quân Mỹ, lý do này “cơ bản không đứng vững”. Ngoài ra, “Bắc Kinh còn không cho phép cả hoạt động giám sát trên bầu trời quốc tế rất hợp pháp và lâu dài”, “một Trung Quốc kiêu ngạo” luôn nâng chính sách duyên hải lên độ cao trong vấn đề chủ quyền.
Còn về phương diện chủ quyền, nước nào cũng sẽ không nhượng bộ. Làm như vậy thì chỉ có thể “đưa mình vào chỗ chết”. Holmes cho rằng, Chính phủ Trung Quốc mạnh mẽ tuyên bố chủ quyền như vậy, chắc chắn sẽ “đi vào con đường tối”, không thể thỏa hiệp.
Trung Quốc “bảo vệ chủ quyền” bằng đàm phán hòa bình?
Báo Trung Quốc cho rằng, việc các học giả Mỹ như James Holmes đem chính sách ngoại giao của Trung Quốc với chủ nghĩa Monroe của Mỹ ra so sánh là “gượng ép”, “đổi trắng thay đen” và “phải đề phòng”.
Bài báo đã liệt kê các hoạt động chinh phạt lãnh thổ của Mỹ theo nguyên tắc chỉ đạo chính sách ngoại giao của chủ nghĩa Monroe, cụ thể như Mỹ đã mở rộng lãnh thổ về phía tây nước này, Mỹ giành lấy các vùng lãnh thổ của thực dân Tây Ban Nha trước đây (quần đảo Hawaii, Philippines, Guam, đặt nền tảng cho Mỹ đến châu Á-Thái Bình Dương sau này), cho rằng, quá trình trỗi dậy của Mỹ là một bộ lịch sử đẫm máu.

Trung Quốc tập trung phát triển tàu vận tải/tấn công đổ bộ.
Với lập luận đó, bài báo cho rằng: “Mấy chục năm qua, Trung Quốc luôn thực hiện 5 nguyên tắc chung sống hòa bình, không xâm phạm lợi ích của bất cứ quốc gia hay dân tộc nào”. Tuy nhiên, tờ báo này quên rằng, năm 1974 Trung Quốc đã trắng trợn đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, đến năm 1988, Trung Quốc tiếp tục dùng vũ lực chiếm thêm một số đảo, đá ngầm ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Những sự kiện gần đây nhất (cắt cáp tàu hải giám, tuyên bố mời thầu 9 lô nằm ngay trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam) cũng phản ánh ngược lại những tuyên bố mà nước này đưa
Bài báo cố nói thêm rằng: “Trong các nước lớn, Trung Quốc là nước duy nhất thực hiện nguyên tắc bảo vệ chủ quyền bằng đàm phán hòa bình, xây dựng quan hệ tin cậy với các nước láng giềng trong mấy chục năm qua và cuối cùng đã ký thỏa thuận biên giới”.
Báo Trung Quốc cho rằng, Mỹ “chưa từng đưa ra yêu cầu chủ quyền lãnh thổ đối với duyên hải” (như Trung Quốc đối với biển Đông) là do khi đưa ra chủ nghĩa Monroe, sức mạnh quốc gia của Mỹ còn yếu, cơ bản không thể chống lại các cường quốc châu Âu. Như vậy, có lẽ báo Trung Quốc cho rằng, do Trung Quốc mạnh rồi, nên họ có quyền và có khả năng đưa ra yêu cầu chủ quyền phi lý như thế trên biển Đông (đòi chủ quyền đối với khoảng 80% biển Đông)!?
Báo Trung Quốc tiếp tục biện hộ cho rằng, Trung Quốc có “chủ quyền vốn có” đối với biển Đông, những năm gần đây, các nước láng giềng đã “gây khó khăn trong vấn đề lãnh thổ”cho Trung Quốc. Trung Quốc muốn bảo vệ “quyền lợi vốn có của mình”, chứ đó không phải là “hành vi xâm lược” theo chủ nghĩa Monroe mà học giả Mỹ nói.

Điều này đúng hay sai thì công luận cứ nhìn vào lời nói và hành động của Trung Quốc trên biển Đông thì ai cũng có thể hiểu được!.


 
Trung Quốc cũng đang đẩy mạnh phát triển tàu hộ vệ 056 có khả năng săn ngầm ở biển gần. Lô đầu tiên loại tàu chiến này sẽ được biên chế cho lực lượng đóng ở Hồng Kông, và rất có thể triển khai ở biển Đông.        














  
 
Nguồn : Theo giaoduc.net.vn